Biểu hiện của bệnh gút
– Khởi bệnh đột ngột, diễn biến từng đợt, giữa các đợt đau các khớp hoàn toàn khỏi (những năm đầu)
– Vị trí bắt đầu thường là các khớp ở chi dưới, đặc biệt ngón bàn chân (70%)
– Tính chất sưng nóng đỏ đau dữ dội, đột ngột ở một khớp, không đối xứng và có thể tự khỏi sau 3 – 7 ngày. Ở giai đoạn muộn biểu hiện ở nhiều khớp, có thể đối xứng, xuất hiện những u cục (tophy) ở nhiều nơi đặc biệt quanh các khớp. Trong giai đoạn cấp có thể kèm các dấu hiệu toàn thân như: sốt cao, lạnh run, đôi khi có dấu màng não (cổ cứng, ói…)
– Có thể có các bệnh tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu… kèm theo.
Bệnh gút không phải ngẫu nhiên được xem là bệnh nguy hiểm không chỉ bởi triệu chứng và các biến chứng của bệnh gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và lối sống của người bệnh mà còn dẫn đến các căn bệnh mãn tính rất nguy hiểm có thể cướp đi sinh mạng của người bệnh.
Béo phì
Độ tuổi trung niên và cơ địa béo phì là hai yếu tố nguy cơ của các bệnh rối loạn chuyển hóa như gút, tăng mỡ máu, đái tháo đường, xơ vữa động mạch…Hội chứng chuyển h óa gồm các bệnh trên đang là một xu hướng bệnh tật phổ biến trong xã hội hiện đại ngày nay do một chế độ dinh dưỡng “quá dư thừa”.
Có sự liên quan giữa trọng lượng cơ thể và nồng độ acid uric máu. Béo phì làm tăng tổng hợp axit uric máu và làm giảm thải axit uric niệu, kết hợp của cả 2 nguyên nhân gây tăng acid uric máu. Theo các thống kê gần đây, 50% bệnh nhân gút có dư cân trên 20% trọng lượng cơ thể.
Tăng mỡ máu
Sự kết hợp giữa tăng mỡ máu và tăng axit uric máu đã được xác định. Có đến 80% người tăng mỡ máu có sự phối hợp của tăng acid uric máu, và khoảng 50 %-70% bệnh nhân gút có kèm tăng mỡ máu.
Ở bệnh nhân gút, ngoài sự rối loạn của thành phần mỡ máu, người ta còn nhận thấy có sự rối loạn của cholesterol, một loại lipoprotein có lợi, có tính bảo vệ đối với cơ thể.
Sự liên quan giữa gút và rối loạn lipid máu chính là một phần của hội chứng chuyển hoá bao gồm tăng BMI, béo phì vùng bụng, tăng mỡ máu, giảm HDL, tăng huyết áp, tiểu đường, tình trạng đề kháng insulin và nguy cơ bị bệnh mạch vành. Tăng axit uric máu kết hợp với béo phì vùng bụng là nhóm nguy cơ cao của bệnh tim mạch có liên quan đến sự đề kháng insulin.
Tăng huyết áp
Tăng acid uric máu được phát hiện ở 22 – 38 % bệnh nhân tăng huyết áp không được điều trị. Tỉ lệ bệnh gút trong dân số tăng huyết áp là 2 –12 %. Mặc dù tỉ lệ tăng axit uric máu tăng ở đối tượng tăng huyết áp nhưng không có sự liên quan giữa acid uric máu và trị số huyết áp. Có 25–50 % bệnh nhân gút có kèm tăng huyết áp, chủ yếu ở các bệnh nhân béo phì. Nguyên nhân gây nên mối liên hệ giữa bệnh gút và tăng huyết áp hiện nay chưa được biết rõ.
Xơ mỡ động mạch
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ rõ mối liên quan giữa gút và xơ mỡ động mạch. Tuy vậy tăng axit uric máu không phải là yếu tố nguy cơ trực tiếp của bệnh mạch vành. Tăng huyết áp, tiểu đường, xơ mỡ động mạch liên quan nhiều đến tình trạng béo phì hơn là liên quan đến sự tăng axit uric máu.
– Khởi bệnh đột ngột, diễn biến từng đợt, giữa các đợt đau các khớp hoàn toàn khỏi (những năm đầu)
– Vị trí bắt đầu thường là các khớp ở chi dưới, đặc biệt ngón bàn chân (70%)
– Tính chất sưng nóng đỏ đau dữ dội, đột ngột ở một khớp, không đối xứng và có thể tự khỏi sau 3 – 7 ngày. Ở giai đoạn muộn biểu hiện ở nhiều khớp, có thể đối xứng, xuất hiện những u cục (tophy) ở nhiều nơi đặc biệt quanh các khớp. Trong giai đoạn cấp có thể kèm các dấu hiệu toàn thân như: sốt cao, lạnh run, đôi khi có dấu màng não (cổ cứng, ói…)
– Có thể có các bệnh tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu… kèm theo.
Bệnh gút không phải ngẫu nhiên được xem là bệnh nguy hiểm không chỉ bởi triệu chứng và các biến chứng của bệnh gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và lối sống của người bệnh mà còn dẫn đến các căn bệnh mãn tính rất nguy hiểm có thể cướp đi sinh mạng của người bệnh.
Béo phì
Độ tuổi trung niên và cơ địa béo phì là hai yếu tố nguy cơ của các bệnh rối loạn chuyển hóa như gút, tăng mỡ máu, đái tháo đường, xơ vữa động mạch…Hội chứng chuyển h óa gồm các bệnh trên đang là một xu hướng bệnh tật phổ biến trong xã hội hiện đại ngày nay do một chế độ dinh dưỡng “quá dư thừa”.
Có sự liên quan giữa trọng lượng cơ thể và nồng độ acid uric máu. Béo phì làm tăng tổng hợp axit uric máu và làm giảm thải axit uric niệu, kết hợp của cả 2 nguyên nhân gây tăng acid uric máu. Theo các thống kê gần đây, 50% bệnh nhân gút có dư cân trên 20% trọng lượng cơ thể.
Tăng mỡ máu
Sự kết hợp giữa tăng mỡ máu và tăng axit uric máu đã được xác định. Có đến 80% người tăng mỡ máu có sự phối hợp của tăng acid uric máu, và khoảng 50 %-70% bệnh nhân gút có kèm tăng mỡ máu.
Ở bệnh nhân gút, ngoài sự rối loạn của thành phần mỡ máu, người ta còn nhận thấy có sự rối loạn của cholesterol, một loại lipoprotein có lợi, có tính bảo vệ đối với cơ thể.
Sự liên quan giữa gút và rối loạn lipid máu chính là một phần của hội chứng chuyển hoá bao gồm tăng BMI, béo phì vùng bụng, tăng mỡ máu, giảm HDL, tăng huyết áp, tiểu đường, tình trạng đề kháng insulin và nguy cơ bị bệnh mạch vành. Tăng axit uric máu kết hợp với béo phì vùng bụng là nhóm nguy cơ cao của bệnh tim mạch có liên quan đến sự đề kháng insulin.
Tăng huyết áp
Tăng acid uric máu được phát hiện ở 22 – 38 % bệnh nhân tăng huyết áp không được điều trị. Tỉ lệ bệnh gút trong dân số tăng huyết áp là 2 –12 %. Mặc dù tỉ lệ tăng axit uric máu tăng ở đối tượng tăng huyết áp nhưng không có sự liên quan giữa acid uric máu và trị số huyết áp. Có 25–50 % bệnh nhân gút có kèm tăng huyết áp, chủ yếu ở các bệnh nhân béo phì. Nguyên nhân gây nên mối liên hệ giữa bệnh gút và tăng huyết áp hiện nay chưa được biết rõ.
Xơ mỡ động mạch
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ rõ mối liên quan giữa gút và xơ mỡ động mạch. Tuy vậy tăng axit uric máu không phải là yếu tố nguy cơ trực tiếp của bệnh mạch vành. Tăng huyết áp, tiểu đường, xơ mỡ động mạch liên quan nhiều đến tình trạng béo phì hơn là liên quan đến sự tăng axit uric máu.
Ở bệnh nhân gút, các yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành như tăng huyết áp, béo phì, đề kháng insulin, tăng mỡ máu góp phần làm tăng sự liên quan giữa axit uric máu và xơ mỡ động mạch. Các yếu tố nguy cơ này tự nó làm tăng nguy cơ của bệnh tim mạch, và như vậy, acid uric máu chỉ gián tiếp làm tăng nguy cơ đột tử do bệnh tim mạch thông qua việc kết hợp với các bệnh lý có nguy cơ cao nói trên.
Chế độ ăn uống cho bệnh nhân gút
TS.BS. Lê Anh Thư Hội Thấp khớp học Việt Nam đã đưa ra lời khuyên về chế độ ăn uống đối với bệnh gút:
Không nên:
– Không uống nhiều rượu mạnh.
– Không ăn các thức ăn chứa nhiều purine như: phủ tạng động vật: tim, gan, thận, lá lách, óc…, hột vịt, gà lộn, trứng cá, cá trích, cá đối, cá mòi. Không ăn mỡ động vật, không ăn đường.
Nên
– Các loại rau xanh, trái cây tươi.
– Uống nhiều nước, nước khoáng có bicarbonate, nước sắc lá xakê.
– Các loại ngũ cốc.
– Sữa, trứng.
– Chế độ sinh hoạt
– Chống béo phì.
– Tăng cường vận động.
– Tránh stress, tránh gắng sức, tránh lạnh đột ngột…
Trong đa số trường hợp, chế độ ăn uống góp phần điều trị cho bệnh gút và các bệnh kèm theo (cao huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu…) chứ không thể thay được thuốc. Thực hiện tốt chế độ ăn uống có thể giảm bớt số lượng thuốc, số loại thuốc cần dùng, giảm bớt các hậu quả xấu của bệnh.
Chế độ ăn uống được sử dụng để thay thế thuốc trong một số ít trường hợp, người bệnh không dùng được các thuốc làm hạ axit uric (dị ứng thuốc, suy thận, suy gan…).
Chế độ ăn uống cho bệnh nhân gút
TS.BS. Lê Anh Thư Hội Thấp khớp học Việt Nam đã đưa ra lời khuyên về chế độ ăn uống đối với bệnh gút:
Không nên:
– Không uống nhiều rượu mạnh.
– Không ăn các thức ăn chứa nhiều purine như: phủ tạng động vật: tim, gan, thận, lá lách, óc…, hột vịt, gà lộn, trứng cá, cá trích, cá đối, cá mòi. Không ăn mỡ động vật, không ăn đường.
Nên
– Các loại rau xanh, trái cây tươi.
– Uống nhiều nước, nước khoáng có bicarbonate, nước sắc lá xakê.
– Các loại ngũ cốc.
– Sữa, trứng.
– Chế độ sinh hoạt
– Chống béo phì.
– Tăng cường vận động.
– Tránh stress, tránh gắng sức, tránh lạnh đột ngột…
Trong đa số trường hợp, chế độ ăn uống góp phần điều trị cho bệnh gút và các bệnh kèm theo (cao huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu…) chứ không thể thay được thuốc. Thực hiện tốt chế độ ăn uống có thể giảm bớt số lượng thuốc, số loại thuốc cần dùng, giảm bớt các hậu quả xấu của bệnh.
Chế độ ăn uống được sử dụng để thay thế thuốc trong một số ít trường hợp, người bệnh không dùng được các thuốc làm hạ axit uric (dị ứng thuốc, suy thận, suy gan…).
Nguồn vnmedia.vn
0 nhận xét :
Đăng nhận xét